CHƯƠNG 4.THỜI CHIẾN
Con gái đầu lòng Vậy là ước gì được nấy. Không lâu, tôi có thai ngay. Có lúc, tôi nghĩ, hay là chỉ khi sống trong “một túp lều tranh hai trái tim vàng” thì ông Trời mới run rủi mọi cách để chúng tôi có con với nhau? Thoạt đầu, tôi thấy tắt kinh. Tôi ngờ ngợ nhưng vẫn khỏe mạnh nên cứ đi làm, đi dạy bình thường. Tôi còn nhớ, một ngày kia, tôi dạy sử dụng bàn tính gẩy cải tiến cho một lớp học ở trường Tài chính bãi Phúc Xá. Dạy cái trò này là dạy 8 giờ một ngày cơ. Đúng lúc tôi đang giảng lí thuyết, thì tự nhiên thấy chóng mặt quay quay rồi ngã xỉu gục xuống mặt bàn, mặc dù vẫn tỉnh. Mọi người cấp cứu tôi đưa vào trạm xá của trường. Tôi được tiêm thuốc trợ lực trợ tim. Các cán bộ nhân viên của trạm rất tận tình. Họ hỏi tôi tên gì, bao nhiêu tuổi, có chồng chưa, có chồng từ bao giờ, kinh nguyệt có đều không. Tôi khai chuyện chậm kinh mấy bữa nay. Họ với kinh nghiệm sẵn có, kết luận luôn chắc tôi có thai rồi, vì dạy mệt quá kéo dài quá nên mới thế. Rồi tiếp theo có một cô giáo của trường tuổi tầm quá trung niên, vào thăm tôi. Chúng tôi nhìn nhau, ngờ ngợ. Cô bảo cô tên là Minh Chi, cô hỏi tôi: “cháu là Kim Thư à? cháu còn mẹ không, nhà cháu ở đâu?” Tôi lúng túng, cảm động, liền nắm bàn tay cô và rơm rớm nước mắt “Thưa…thưa cô, cô có phải là dì Minh Chi em gái mẹ Tường Vân cháu không ạ?” Cô gật đầu nhẹ nhàng…Ôi…dì tôi thật rồi. Lâu nay tôi vẫn mang máng nghe nói có dì Minh Chi dạy ở trường Tài chính mà. Tôi mới đến dạy vài buổi chưa kịp đi tìm dì thì dì đã đến tìm tôi. Dì nghe nói có cô giáo nào từ cơ quan nọ sang dạy bàn tính, tên là Bùi Thị Kim Thư, cái tên nghe quen quen nên dì vào thăm xem thế nào. Vậy là có đến cả chục năm trời, dì cháu không gặp nhau, tôi chả hiểu vì sao. Nhưng tôi chăm chú nhìn đôi mắt dì hiền từ, nhìn vầng trán, đôi môi của dì, tôi liên tưởng bức hình chụp mẹ tôi đặt trên ban thờ, nên tôi nhận ra dì. Lần gặp gỡ ấy thật là hiếm hoi trong đời tôi. Dì đã thuê xích lô chở tôi về nhà. Và tôi nằm ốm luôn từ đó, không đi làm được, mỗi khi chuyển giường để thay chiếu phải có hai người dìu xốc nách tôi hai bên. Chỉ ít năm sau dì mất, khá sớm so với tầm tuổi của dì. Còn tôi thì bước vào một giai đoạn thay đổi lớn lao trong cuộc đời mình, chiến đấu với cái nghén kì lạ, đẻ con nuôi con tới ba lần, quay cuồng trong những tháng năm bận rộn vô cùng mà chỉ đến lúc này, cuộc gặp gỡ tình cờ của hai dì cháu mới hiện lên rõ ràng như vừa mới hôm qua đây thôi.
Ở trường Tài chính về, tôi không đi làm được nữa. Tôi có thai thật, nghén nôn suốt ngày, rất nặng. Cứ năm phút, tôi nôn một lần, mắt nhìn chăm chăm vào cái đồng hồ treo tường. Hễ rời mắt sang chỗ khác là chóng mặt ngay. Nôn hết thức ăn thì nôn mật xanh mật vàng. Nhà có cái bô rất to, cao. Vệ sinh vào đấy, nôn cùng vào đấy. Me tôi thật vất vả vừa bán hàng, vừa phải phục vụ con. Cả bố tôi nữa chứ, ngày nào ông cũng sang, lọ mọ xách cái cặp lồng đi mua hết thứ này đến thứ khác và dỗ tôi ăn, nào phở, nào miến, cháo.Tôi thương bố tôi lắm, ông đã già rồi, trời mưa rét căm căm, vẫn cứ lầm lũi cái áo ba đờ xuy cũ đi khắp nơi, mua quà tốn bao nhiêu tiền cho con gái, mà rồi tôi cứ vừa ăn khỏi miệng là nôn hết ngay. Tôi nói với bố “Bố ơi, đừng mua gì cho con nữa. Bố thấy đấy, con cứ ăn vào lai nôn hết phí quá bố ạ”. Bố tôi bảo “Con đừng có ngại phí. Ngày xưa mẹ con cũng thế, ốm nghén nặng y như con bây giờ, mà phải ba tháng liền nằm trên giường không dạy được cơ. Con cứ ăn đi, nôn chẳng sao cả, thể nào nó chả còn lại trong người một tí gì đấy, chứ không thể nôn ra toàn bộ được. Con không chịu ăn thì làm sao sống nổi và phải nghĩ đến cháu bé trong bụng nữa chứ!”. Rồi bố tôi ngồi bên cạnh, nghe bên ngoài rao bán cái gì, ngô luộc, bánh rán, bánh bao là chạy ra gọi mua hi vọng tôi có chịu được thứ nào không. Nghĩ lại cả đời về sau này cho tới khi bố tôi mất, tôi phục vụ chăm sóc bố rất tận tình nhưng không bao giờ chăm chút mua được lắm thức ăn cho bố như thế. Đó là nói chuyện quà bánh, còn thì ngày nào me chẳng nấu cơm ba bữa cho tôi, nhưng tôi đều nôn hết. Về sau mới phát hiện rằng có một món ăn vào không bao giờ nôn ra, đấy là rau muống sào tỏi. Vậy là cứ đều đặn ngày ăn ba bát rau muống sào tạm ổn. Chỉ tội tôi gầy và xanh như cái tàu lá chuối non. Rồi dần dần bớt chóng mặt, tôi có thể ngồi lên được, nhưng vẫn nôn liên tục. Tôi rất sợ tiếng nói của phụ nữ. Cơ quan bạn bè đồng nghiệp đến thăm mà có chị em í ới là tôi không thể chịu được, chả lẽ bảo mọi người về đi, chỉ để lại mấy ông đàn ông tiếng nói trầm trầm là còn nghe tạm!
Những ngày tôi ốm nghén này, MQ vẫn đi dạy và ghé về thăm tôi, chứ không ở hẳn nhà, nên mọi việc chăm sóc chủ yếu nhờ vào cha mẹ vợ. Vậy là tôi chẳng ở khu tập thể của trường là bao. Tôi trở về với chợ Trời ồn ào náo nhiệt và cửa nhà tôi luôn đóng chặt. Me tôi bán hàng văt ở phía ngách phụ. Tôi buồn lắm, cứ ốm đau hoài, hàng ngày tự lắng nghe xem con mình lớn lên bao nhiêu rồi, mà trông xuống bụng vẫn thấy bé tí. Khi thai năm tháng rưỡi, đi khám lần đầu tiên thì họ bảo thai nhỏ và yếu lắm, chưa nghe thấy tim thai. Tôi được tiêm B1 và B12, kích thích thêm ăn uống và tạo máu. Tôi đã trở day đi lại bình thường, nhưng ngày vẫn nôn chừng năm sáu lần. Tôi xin cơ quan cho đi làm tiếp, ngày chỉ làm một buổi. Tôi được giao soạn giáo trình, tài liệu về máy tính cơ điện, về kĩ thuật tính toán nên nhàn không có gì vất vả. Tôi ăn ngày càng khỏe hơn, hồi phục dần và thai lớn lên rất nhanh. Khi thai sáu tháng, trong cơ quan có người nhìn tôi còn chưa biết tôi có mang, đến khi thai sáu tháng rưỡi thì người ta lại hỏi, bao giờ đẻ bụng ộ ệ quá rồi! Tôi nhớ khi thai được hơn tám tháng, tức là khi sắp sinh, có một lần tôi ăn như thế này: Sáng dạy, ăn hai bát cơm rang, hai quả chuối tây to, hai quả trứng gà luộc. Đi ra đường ăn tiếp một bát xôi ngô. Vào cửa hàng mậu dịch, ăn một bát mì không người lái, tức là không có thịt. Lên cơ quan, 9h30 ăn một bánh mì to. 11h30 ăn cơm tập thể ở nhà ăn. Chiều liên hoan đơn vị, ăn giống như bạn bè ăn, nghĩa là thịt gà, thịt chó, đồ xào nấu các loại, rồi ăn thêm ba tô canh măng và một quả bưởi chua thật lớn. Xong đâu đấy, tôi leo lên bàn làm việc nằm vì no quá không ngồi được, nằm đến 9h30 tối lọ mọ dạy đi xe đạp nam của MQ mà về nhà. Tóm lại là ba tháng trước khi sinh cháu tôi ăn bù, và kết quả các số đo về thai nhi trở lại bình thường, sau này cháu sinh ra được 3kg3 hẳn hoi. Tôi nhớ mãi chị y sĩ trạm y tế cơ quan bảo tôi rằng đời chị công tác 25 năm, chưa bao giờ gặp trường hợp nào nghén nặng như tôi cả.
Trước dự kiến sinh 10 ngày, tôi nghỉ đẻ. Suốt ngày ngồi không ở nhà chờ chuyển dạ sao mà sốt ruột vì thời gian trôi quá chậm chạp. Tôi đành vác xe đạp nam đi chơi, cứ nghễu nghện cái bụng ngồi qua cái thanh ngang mà chả ngại gì. Tôi đi lên Cửa Nam, vòng vèo mấy phố sầm uất Hàng Bông, Hàng Đào, Hàng Ngang…rồi qua Đinh Tiên Hoàng, Phố Huế mà về. Thi thoảng tôi chạy sang chị họ bên cạnh, hỏi với cùng một câu hỏi “ Chị ơi! sao em chả thấy gì khác?” Chị cười và bảo “Thôi mà cô cứ yên tâm, “bé mít” ngày xưa bây giờ đã lấy chồng bụng to thế này thì sẽ đến lúc phải đẻ mà, đừng có lo lắng quá”. MQ thi thoảng về thăm, chỉ thích áp tai vào bụng vợ nghe xem con nó “bảo” gì. Tôi nằm ở giường, đặt cái quạt nan lên bụng mình. Phắt một cái ranh con đạp mạnh đến nỗi cái quạt bay ra thật xa rơi tòm xuống đất. MQ lật đật chạy đi nhặt quạt, và đặt lại, tiếp tục như thế chừng bốn năm lần. Khiếp quá, chả biết con gái hay con trai mà ghê gớm thế.
Rồi đến một ngày, sáng ra ngủ dạy tự nhiên lại nôn. Hôm đó, MQ đưa sinh viên đi gặt lúa bên Đông Anh. Có cô bạn thân nhất là Hiền đến chơi với tôi. Có cả anh bạn Kha cùng đến. Bỗng nhiên, tôi thấy nước gì xối xả tuôn từ trong người ra như tắm. Chạy sang hỏi chị họ, chị bảo vậy là vỡ ối rồi, phải đến nhà hộ sinh ngay. Cuống lên, thay vội quần áo, tay xách túi đồ dùng giấy tờ cần thiết chuẩn bị sẵn định ra đường gọi xích lô, thì anh Kha bảo để anh chở bằng xe đạp đi luôn. Tôi lên vội xe anh. Suốt dọc đường nước vẫn tuôn như thế. Tới nhà hộ sinh, họ khám và bảo đã vỡ ối toàn bộ, mà cổ tử cung chưa mở phân nào, vậy là chờ đẻ khan thôi, con so mà như vậy là không ổn lắm. MQ từ Đông Anh về ghé vào nhà nghe tin tôi vội đến ngay. MQ mua cho tôi một cặp lồng phở và mấy quả cam. Lúc ấy tôi thấy người bình thường nên ăn phở ngon lành, còn cam thì nhờ MQ cắt sẵn từng miếng để dành đó, khi nào sắp đẻ sẽ ăn! Chưa xong, đang vội cắt cam thì MQ bị họ đuổi về, tôi ở lại một mình, tần ngần nhìn theo chồng mà tâm trạng rối bời, không biết sẽ đẻ thế nào.
Trời tối hẳn rồi, tôi thay váy áo của nhà hộ sinh rồi vào phòng chờ, chuyện trò làm quen mấy chị em. Khoảng một giờ sau, tôi bắt đầu đau từng cơn, lúc đầu thưa, sau rồi nhanh dần. Thi thoảng tôi nhờ bà đỡ khám lại cho mình, cổ tử cung mở rồi nhưng tiến độ có vẻ rất chậm. Bà bảo tôi yên tâm không thể đẻ nhanh được đâu. Tôi không ngủ được, cứ lần thành giường mà đi vì nghe mọi người bảo lúc sắp đẻ phải vận động đi lại nhiều không được nằm yên. Trời đầu tháng 11 tây năm ấy rét lắm, mưa phùn và giá lạnh. Đã về đêm, ca trực đi nghỉ tạm rồi. Tất cả đều yên ắng. Tôi đau nhưng không dám gọi bác sĩ dạy, cứ đi đi lại lại chịu đau một mình. Tới gần 11 giờ đêm, cảm thấy không thể chịu được nữa, tôi đánh bạo gõ cửa gọi bác sĩ. Bà cằn nhằn: "Ôi dào, tôi đã bảo cô đừng có sốt ruột, cô còn lâu mới đẻ, con so mà. Người ta còn nằm mấy ngày chờ trực kia kìa, kêu la chửi chồng ầm ầm, đau như cô đã ăn thua gì". Tôi rụt rè “Thưa bác, cháu đau thật mà, đau dồn với các cơn liền nhau. Cháu không kêu ca vì cháu ngại làm ồn, nên chịu đựng thôi, bác làm ơn cứ khám cho cháu”. “Nào thì khám…cô lên bàn đi” ”Ối ối, mở hết cả 10 phân rồi, mau mau sang bàn đẻ phòng bên đi. Cái nhà cô này con so mà lạ thật, cấm có kêu ca khóc lóc gì…à mà cô vỡ hết ối rồi còn đâu. Gay thật để tôi gọi cấp cứu sang bệnh viện C đã”. Tiếng điện thoại réo lên. Tôi nghe rõ đầu bên kia trả lời, “bệnh viện C chật cứng rồi, tự giải quyết thôi chi ạ”. Tôi lúc đó chả biết nên mừng hay nên lo nữa, lật đật sang phòng đẻ. Vừa trèo lên bàn, bà đỡ khám lại, rồi bỏ sang bàn bên phục vụ sản phụ khác (một bà đỡ phụ trách ba bàn luôn). Tôi đang phân vân thì bị một chị bụng chửa vượt mặt lay lay “Này em xuống đi cho chị nhờ, em con so còn lâu mới đẻ. Chị đẻ nhiều rồi chị chỉ thoáng một cái là xong thôi”. Tôi xuống, chị lên bàn. Đúng là “thoáng” thật, bà đỡ quay lại, mọi việc xong xuôi. Chị ta đẻ con trai. Bỗng xuất hiện một ông cứ hai đầu gối quì lên mặt đất lết vào. “Ôi con trai của bố ơi! bố chờ đợi con đã hơn chục năm nay rồi” và anh ta khóc hu hu thật tội. Thì ra vợ anh đẻ lần này là lần thứ mười. Chín lần trước là chín cô con gái. Bà đỡ la lên "Cái nhà anh này đứng lên đi nào, vui quá thì phải đứng lên rồi chúng tôi cho nhìn mặt con. Đã hỏi vợ câu nào chưa hả?".Tôi thấy cứ ngồ ngộ thương anh ta, nhưng thương vợ anh ta thì nhiều hơn. May là chị ấy đẻ nhiều nên lần này đẻ nhanh, có vẻ như không đau đớn gì.
Rồi đến lượt tôi. Tôi rặn ì ạch mà không ăn thua. Bà đỡ phá lên cười “Cái nhà cô này hay thật cứ è è trên cổ họng thì đẻ làm sao được. Em phải thở sâu rặn …bên dưới ấy nhá”. “Ôi bác ơi, cháu muốn đi ngoài, cháu xin ra nhà vệ sinh ạ” “Này tôi đố cô ỉa được ra đấy, có sao thì tôi dọn, cô cứ nằm đó mà ỉa ra con thì có…ha ha ha…”. “Bác vui tính quá, cháu cảm ơn bác, nhưng hay là bác tiêm cho cháu một mũi thuốc để cháu chóng đẻ hả bác?” “Hừ chưa cần…nhưng cô phải chịu khó không đẻ nhanh lên là con cô ngạt đó, cô làm gì có nước ối nữa”. Thôi đành căng thẳng mà bình tĩnh làm theo lời chỉ dẫn của bà đỡ. Và con gái tôi-Hồ Thanh Hoa-đã ra đời lúc 11 giờ đêm ngày 1 tháng 11 năm 1971. Cháu nặng 3,3 kg, được tắm rửa và đánh số cẩn thận cho khỏi nhầm. Rồi tôi được lấy nhau ra, vệ sinh xong chuyển sang phòng sản phụ. Cả đêm, tôi không ngủ được. Chờ mãi năm giờ sáng MQ đã vào thăm rồi. Ai cho vào giờ này đâu, nhưng MQ dò tìm bức tường của phòng sản phụ và leo đến đấy để gọi vào. Không giống chị đẻ nhanh nọ, tôi sinh con gái là niềm hạnh phúc lớn của má chồng tôi, bởi vì má toàn sinh con trai, MQ là út. Trước đây ba má đều mong muốn có con gái mà không được. Nay tôi sinh con gái là bà nội thỏa niềm ước mong, không có con gái thì có cháu nội gái vậy. MQ bị “lây” luôn niềm mong ước con gái đó.
Vì khi sinh phải khâu nhiều (khâu hai lần vì lần đầu bị tuột chỉ khâu lại) nên tôi rất đau, và phải dùng nhiều kháng sinh nên mệt. Ngày ấy, đẻ con ra sau 24 giờ đồng hồ là sản phụ tự nhận con mà chăm sóc, cho bú. Tôi cho bé bú sữa non, nên khi sữa về, là về ồ ạt. Bé bú rất mạnh, ngậm sâu đầu ti mẹ mà kéo ra nên bú được, còn các bé khác xin bú nhờ thì mỏi mồm ngủ mất. Ngay đêm đầu tiên trông con, tôi đã phải mang tã lót, khăn lau bằng vải màn ra máy nước mà giặt, vì chả có ai đỡ đần. Rét cắt ruột, hai bàn tay tê buốt vò trong nước lạnh. Tôi không biết rằng việc làm đó rất có hại về sau. Bé mới có vài ngày tuổi đã có thể nằm nghiêng, ngủ lăn sau một cơn khóc xa xả trong lúc mẹ đi tiêm và thay vệ sinh. Da dẻ bé hồng hào căng tròn, chỉ tội mồm rộng, mắt híp tịt, mũi thì tẹt. Mãi khi bé mở mắt tôi mới thấy được an ủi, vì mắt có vẻ giống bố MQ. Giống là giống cái tròng mắt bên trong thôi, và lông mi hơi cong cong dài dài. Kiểu này là bé giống bà ngoại hay sao ấy, thế thì sau này thắt đáy lưng ong phải biết.
Me tôi bận bán hàng không mấy khi đến thăm được, MQ đến vào ban ngày là chính khi đi dạy học về. Mỗi lần đến MQ cứ lơ lơ ra chiều ngượng ngập, chẳng chăm lo gì tôi, nên “máu bà đẻ” nổi lên, tôi tự ái lắm, chẳng nói gì và lòng buồn khó tả. Mãi về sau ngẫm nghĩ kĩ tôi mới thông cảm với chồng, MQ còn trẻ, vợ đẻ lần đầu, tính tình thì hiền lành nhút nhát nên không biết thể hiện thế nào, hoặc tự an ủi “thôi, “lơ lơ” là đặc điểm chung của đàn ông Việt Nam, chồng mình làm sao là ngoại lệ được???”. Tôi tự mua đồ ăn sáng, tự ăn các xuất cơm tập thể nhà hộ sinh nấu cơm phục vụ sản phụ.Tôi phải ở nhà hộ sinh lâu hơn chị em khác vì đợi cắt chỉ, và còn bị sót nhau phát sốt nữa.
Rồi mọi việc cũng qua, tôi đem bé về nhà mình và có bà me trợ giúp. Tôi lỡ dùng nước lạnh sớm nên tặc lưỡi về nhà vẫn tự giặt thôi, chỉ phiền me một ít bữa đầu. Tôi có nhiều sữa, bé bú không hết tôi còn vắt ra hàng cốc đầy để MQ uống đỡ phí. Tất nhiên là tôi pha ít đường trắng cho dễ uống. MQ sài tuốt, còn khoái chí nữa là khác. Mỗi tội khi nào đang bế con mà con ị ra thì gọi ầm lên:“Me ơi, em ơi nó ị này!”. Chịu MQ thật, đúng là bố trẻ con chưa kịp lớn.
Khi mới về nhà, tôi ăn khỏe, me nấu cháo gạo nếp đỗ xanh, cháo chân giò cho ăn nên dễ chịu, nhưng rồi sau đấy một đầu ti bị nứt cổ gà nên đau lắm, cứ cho bú bên này rửa bên kia bôi thuốc mỡ kháng sinh vào.Tôi đau hai tháng liền, cứ mỗi lần cho con bú là run lên bần bật, tay nắm chặt thành giường, toát mồ hôi. Em bé thì bú cực khỏe nên bôi thuốc chưa kịp lành nó đã bú rồi. Nhưng bé khóc dạ đề suốt ngày đêm chỉ trừ lúc bú. Bà hàng xóm phải chạy sang hỏi thăm “Này cô, tôi hỏi khí không phải, cô nuôi con bằng phương pháp khoa học đấy à?” “Dạ bác nói cháu chưa hiểu ạ, cháu có phương pháp khoa học gì đâu ạ?” “Là tôi tưởng thế, tôi thấy cô cứ bỏ mặc cho bé khóc chả chịu dỗ gì cả nên tôi tưởng…” “Không phải thế đâu bác ạ. Mẹ cháu và cháu thay nhau bế bé suốt ngày đêm này, mà bé cứ khóc thôi. Đúng là phiền cho các bác ở bên cạnh quá. Cháu sẽ cố gắng ạ”. Phải đúng ba tháng thật, cô nàng mới chịu nín. Nhưng rồi tôi nuôi con vất vả vậy nên dần dần không ăn được nữa, người gầy và xanh, ai đến chơi đều hỏi thăm xem có phải mẹ nó bị “hậu sản” không. Tôi cho con bú đúng là suốt ngày đêm, về sau mệt quá không ngồi được nữa, cứ nằm cho bú rồi bé đái ngay ra giường khai mù. Cuối tuần MQ về thăm, nằm trên giường với vợ con mà đầu thì thò ra ngoài màn vì khai quá chịu không nổi!.Ngày ấy, tôi may cho con được 20 cái tã chéo, còn phá màn cũ ra làm vải lót đít bên trong trông cứ đen đen xam xám màu cháo lòng trông gớm chết. Có đến cả hàng tuần, tôi không ăn được gì mấy, chỉ mua cam về ăn, có tám hào một kg, cam Vinh rất ngọt. Ấy thế mà bé chả bị tiêu chảy gì cả. Bé lớn nhanh như thổi chỉ tội không được ngoan.
Con gái được bốn tháng thì vợ chồng tôi lại chuyển vào khu tập thể. Bà nội ở Hải phòng lên chăm cháu một thời gian. Lần đầu tiên tôi sống với mẹ chồng. Tiếng nói, cử chỉ, thói quen sống mẹ con tôi khác nhau, nhưng tôi sớm nhận ra rằng má rất cần tình cảm, giống như tôi vậy. Má thích ăn trầu, thích mua những thứ…rẻ tiền, và không nói nhiều. Vậy là tôi giống má quá còn gì, chỉ ngoại trừ việc ăn trầu thôi. Thi thoảng sau khi đi làm, tôi đạp xe lên tận chợ Đồng Xuân mua cho má mấy quả cau, ít trầu và đặc biệt là cả một cây vỏ để má ăn dần. Má có vẻ cảm động vì con dâu quan tâm và chiều má. Tuy nhiên, bình thường tôi sống cũng phải ý tứ hơn, luôn cố gắng đi làm về vẫn lo công việc nội trợ nhiều, không ỷ lại vào má. MQ có vẻ yên tâm và vui vì cảm nhận được mối quan hệ mẹ chồng con dâu của chúng tôi là ổn. Sống với má, tôi còn học được nhiều. Con tôi bị táo bón đến bốn năm ngày không ị được, má bày cho cách đun mật ong lên khi sệt sệt rồi bắc ra viên nhanh tay thành từng con nhộng, bỏ vào lọ dùng dần. Mỗi lần con bị táo muốn con ị được chỉ việc đút một viên vào hậu môn, bế bé khép đùi một lát thôi là bé ị ngay. Có khi viên mật ong tự chảy ra hết và bé ị, có khi viên mật ong chưa kịp tan lại bắn ra ngoài luôn cùng với phân, rửa sạch đi dùng lại được (gớm quá!). Thi thoảng má thích đan len, đan áo, mũ gì đây, mà má đan chậm lắm cứ từ từ từng mũi một.Vì là sở trường của tôi từ nhỏ đan thuê, nên tôi thường đan cho má vèo vèo má chắc sẽ vui. Biết má thích ăn ốc vặn luộc, tôi mua một mớ về ngâm nước vo gạo một ngày một đêm, luộc lên để má và chồng xì xụp khêu chấm với nước mắm gừng nghe chừng ấm thêm cửa nhà, tôi thèm đến chết mà không dám ăn vì đang nuôi con nhỏ. Má thì bảo ăn ốc vào thấy mát ruột quá.
Chấp nhận
Cuộc sống đang êm đềm thì một ngày kia, MQ đi dạy về nói với tôi là anh đi nghĩa vụ quân sự! Tôi nghe mà ù cả tai lên, ngơ ngác. Rồi sau MQ bảo anh đã viết đơn xung phong đi bộ đội! Đến lúc này thì tôi không ù tai nữa. Tôi chỉ im lặng với một nỗi buồn khôn tả, mà phải mấy ngày sau tôi mới hỏi anh: “Anh xung phong mà sao không nói cho em biết?”. MQ thản nhiên “Ừ thì nhà có bốn anh em chưa ai đi bộ đội, anh là nhỏ nhất thôi thì bây giờ đi.” Tôi hiểu, tôi ủng hộ mà, tôi không ngại gian khổ phải nuôi con một mình. Cả nước đang có chiến tranh. Nhưng tôi vẫn cảm thấy như bị xúc phạm. Anh và tôi yêu nhau hiểu nhau đến thế, anh nghĩ về tôi thế nào mà “tiền trảm hậu tấu” vậy? Anh không tin tôi sao? Tôi nghĩ ngợi suy diễn đủ thứ mà chỉ quẩn quanh một mình. Tôi tự ái, tôi khổ sở, mà cứ phải tỏ ra bình thường, tôi chả dám nói với ai kể cả má. Không nói với má cũng phải, vì má không biết anh viết đơn tự nguyện. Má đã khóc lóc làm ầm lên khi má con bà cháu tôi lên thăm anh đóng quân ở Hải phòng. Má trách ban chỉ huy đơn vị sao “bắt” anh đi bộ đội, rằng nó vừa lấy vợ có con đỏ hỏn ra kia, nào là đời ba má tham gia cách mạng ra tù vào tù bao nhiêu năm chưa đủ hay sao? Đến lúc này thì tôi phải an ủi “Má ơi! nhà mình có bốn anh em mà chưa ai nhập ngũ, bây giờ nhà con đi là bình thường mà má. Đi một thời gian chồng con sẽ về, con nuôi cháu được má à. Má đừng trách hỏi các anh ở đơn vị làm khó cho người ta. Lên đây rồi, má con mình vui thì nhà con đi mới yên tâm được”. Tôi nói với má, không nén nổi nước mắt rơi lã chã, má không thể biết được ẩn sau những giọt nước mắt ấy là nỗi tủi thân thầm lặng của tôi.
Thực ra, tôi hiểu rất rõ về MQ. Anh là người lạc quan, vui tính. Anh thường bảo tôi: ”Em hay suy nghĩ phức tạp lắm, rồi tự làm khổ mình. Nếu vì nghĩ phức tạp, vì khóc, mà bớt được nỗi khổ hoặc khó khăn nào đó thì cứ nghĩ cứ khóc, nhưng có phải vậy đâu. Thực ra mọi sự là do mình quan niệm thôi em ạ.” Ngẫm nghĩ lời MQ, tôi đành chấp nhận MQ xung phong nhập ngũ vì lúc ấy ai mà chả thế, có hỏi ý tôi thì sự thể cũng chẳng khác được. Thành ra thôi, hai mẹ con tiễn MQ lên đường, ra chỗ tập trung vui vẻ là chính, bé Hoa vẫy bàn tay bé xíu tạm biệt bố, mà chưa hiểu bố đi đâu. Chỉ thương má, má đang sống yên ổn đầm ấm với con trai út mà má thương nhất, và con dâu mới cùng cháu gái nội đầu tiên thỏa lòng mong đợi, vậy mà má phải rời xa.
Sơ tán
MQ đi bộ đội. Má về Hải phòng. Tôi mang con về nơi sơ tán của cơ quan dành cho các cán bộ nhân viên đang nuôi con nhỏ. Anh cả của MQ, anh Hồ Anh Thơ và mấy cô bạn gái đồng nghiệp trẻ trung xinh đẹp của tôi đến giúp tôi dọn dẹp nhà cửa, trả căn phòng cho trường. MQ tập trung tại Bình Đà, gần nơi cơ quan tôi tạm sơ tán. Tôi và anh Thơ đi bộ đến gặp được MQ một lần trong chốc lát vào một đêm sáng trăng. Từ đó, MQ chuyển quân vào Thanh Hóa, rồi Hải phòng. Ngoại trừ những lần gặp nhau, tôi không viết thư cho MQ, hình như vì còn giận, và cái chính là bận lo cuộc sống của hai mẹ con trong thời chiến. Con tôi vẫn bú mẹ và ăn dặm được nhiều. Tôi cắt quần đen cũ của mình may váy đầm đen cho bé. May con gái da trắng nên trông khá hay. Tôi có biết may quần áo đâu, cứ cắt đại rồi khoét cổ tròn, vuông, lúc để váy thẳng lúc lại xếp nếp. Các mẹ hay gửi con cho nhau, bọn trẻ chơi với nhau vui lắm, rồi các mẹ còn hẹn hò sau này làm thông gia nữa. Trong số các mẹ, chỉ có tôi nuôi con một mình, vì MQ nhập ngũ, còn lại đa phần họ có vợ có chồng cùng cơ quan và thăm nom nhau luôn. Lúc đầu tôi buồn sau rồi quen đi, tức là quen buồn ấy.
Ít lâu sau, chúng tôi tạm sơ tán về Yên Xá. Đây là một cơ sở đào tạo máy tính của ngành. Tôi nuôi con cẩn thận, làm hẳn ba loại ruốc: ruốc tôm, ruốc cá quả và ruốc thịt lợn để quấy bột. Ngoài ra còn trứng gà tươi để sẵn hàng chục quả nữa. Tôi ăn cơm tập thể 18 đồng một tháng, ăn toàn cơm độn ngô vàng óng, mấy miếng đậu phụ kho và ít rau muống luộc. Tôi ngày càng gầy đi và xanh rớt, còn con thì béo tốt hồng hào nên vẫn thấy vui. Để bồi dưỡng thêm, tôi hay nhờ nhà bếp mua hộ xương thủ lợn. Nó rẻ lắm. Mang xương về tôi bổ ra lấy óc rán trứng cho con ăn, và luộc lên gỡ thịt nấu cháo cho mình.
Me tôi bận trông cháu cho chị Thùy Trinh và đi sơ tán, bố tôi thì ở với dì kế và em Vinh khi sơ tán về quê lúc trở ra Hà Nội. Chỉ có hai mẹ con tôi ở với nhau. Thi thoảng có việc phải về Hà Nội, mua dầu hỏa đun bếp, mua lương thực theo tiêu chuẩn, tôi đèo con trên xe đạp rồi hai mẹ con đi. Dọc đường, nhiều khi phải xuống xe dắt bộ vác qua những chỗ vừa cháy vì bom thả; hoặc đang đi quẳng xe xuống mà bế con tạt vào hầm trú ẩn đào bên đường là những cái hố tròn tròn, hai mẹ con luôn được mọi người giúp đỡ khi lên xuống. Ngày ấy không cảm thấy có gì sợ hãi. Tôi chỉ buồn thôi. Nhất là khi thấy xe bộ đội chạy trên đường, tôi dừng lại đứng nhìn theo, rơm rớm nước mắt. Tôi tưởng tượng chồng tôi có lúc nào ngồi trên xe như thế. Tôi lo anh không đủ sức khỏe, vì trước đây anh rất yếu, nhiều bệnh lắm nhất là đau dạ dày nặng, bị ho ra máu và có vết phổi rám. Có lần, anh bảo tôi hay là đừng lấy anh nữa kẻo về sau tôi khổ. Tôi ngăn không cho anh nói tiếp và lảng sang chuyện khác. Trong thâm tâm, tôi nghĩ khi lấy nhau rồi tôi sẽ chăm cho anh khỏe lên, chứ làm sao mà phải “đừng lấy”. Con người ta có lúc này lúc khác mà. Nhưng tôi chẳng hình dung được bỗng nhiên anh xa mẹ con tôi đâu. Từ ngày nhập ngũ, anh vẫn thường xuyên viết thư cho tôi. Anh rất sốt ruột vì không nhận được thư vợ. Anh nhớ tôi, nhớ con. Sự lạc quan của anh không đẩy lùi được nỗi nhớ. Tôi không viết, cố tình, lúc đầu là hơi giận, nhưng về sau hết giận và có ý trêu chồng là chính. Tôi ngầm chịu ảnh hưởng tính nết của anh, hay đùa hơn, vui tính hơn. Mãi sau, tôi mới thương tình viết cho anh một lá thư, rằng tôi vẫn nhận thư anh, nhưng tôi bận chăm con nên không viết. Tôi ngày càng yên tâm hơn vì anh khỏe không đau ốm gì. Nhưng tôi lo lắm khi thấy anh kể, có những lần anh vừa trèo từ cột xuống (lính thông tin), chạy về đơn vị thì ở đó bom nổ. Lo thì lo vậy thôi, từ lâu rồi tôi vẫn nghĩ sống chết là có số.
Con tôi còn nhỏ, mà tôi đưa đi đưa về thế không ổn nhưng gửi lâu thì chả ai trông được, ai cũng bận bịu với con của mình, vả lại chiến tranh chả biết thế nào, nên đành vậy. Rất may là tôi có cậu chồng giúp đỡ, cậu Lê Hân, em ruột của má làm ngay ở Hà Nội. Từ ngày MQ nhập ngũ, cậu quan tâm đến hai mẹ con hơn. Lúc tôi về thăm cậu, hoặc khi cậu vào thăm tôi, cậu hay gia cố hộ cái ghế chở bé sao cho tiện, có cọc bốn chung quanh để treo vải màn rủ xuống phòng khi gió rét. Cậu hay mua chuối tiêu cho hai mẹ con, còn cậu đau dạ dày không ăn được. Cậu tập kết ra Bắc chỉ có một mình, ngày trước cậu chuyển đi đâu thì má tôi theo đấy, hai chị em ở với nhau. Khi má có cháu nội đầu tiên, má mới về Hải Phòng, và cậu ở Hà Nội một mình trong một phòng nhỏ tập thể cơ quan. Khi cậu đi tập kết, mợ hoạt động ở lại Khánh Hòa. Cậu mợ luôn giữ lời thề chung thủy hẹn ngày thống nhất đoàn tụ, nên cậu không lấy vợ khác mặc dù có lúc nao lòng.
Ở trường nơi sơ tán, hàng ngày công việc chuyên môn tự giác làm không ai kiểm soát. Tôi vừa tự trông con vừa soạn giáo trình tài liệu, không bỏ bễ bao giờ. Lúc nào dỗ được con ngủ là ngồi viết. Xong từng phần là tôi chủ động báo cáo trưởng phòng Quy để nhận việc tiếp theo. Tôi ngại các đấng mày râu nghĩ rằng phụ nữ thì chỉ có thế đẻ con nuôi con và không làm được gì, nhất là sơ tán thế này, dễ dàng ỷ khó khăn mà lơ đi để họ phải gánh vác tất, nên tôi luôn cố gắng. Còn chuyện sinh hoạt thời chiến tranh thì quen thôi không có gì căng thẳng. Hàng ngày máy bay địch diễu qua diễu lại mãi rồi cũng thấy bình thường. Hễ có lệnh báo động thì chạy xuống hầm, ngồi đó mà nghe tiếng ì ầm, chỉ mong sao cho máy bay địch bi ta bắn rơi thêm nữa, rồi có thông báo “Máy bay địch đã bay xa” thì rời khỏi hầm mà tiếp tục làm việc. Mùa hè ở nơi này phiền hà nhất là tắm rửa. Có mỗi cái ao to, với hệ thống lọc đơn giản nên quanh quẩn nước bẩn lại chảy về, thôi thì nước giặt hành kinh của phụ nữ, đủ kiểu. Chúng tôi phải đi gánh nước ở một giếng làng cách xa trường, lấy về làm nước ăn. Con gái tôi mọc bao nhiêu “đầu đanh gai gạo”, chắc vì nóng quá, và vì thiếu vệ sinh, nên hàng ngày tôi còn phải gánh nước giếng làng để tắm gội cho bé chứ không dám dùng nước công cộng. Tôi gầy như que củi, tự may hai áo cộc tay bằng phin màu xanh hoà bình để thay đổi, hai bên nách hở ra, ngực thì lép dần mặc dù vẫn cho con bú, lúc nào cũng thất thểu vội vã vì phải tranh thủ thời gian từng tí một. Kể ra thật xấu hổ, gái một con gì mà móng chân để mãi chả cắt đen xì xì, cứ cái đôi dép cao su, hoặc dép lê tàng tàng xỏ vào mà chạy thôi. Thi thoảng mới giật mình nhìn xuống chân và cắt lấy cắt để mấy cái móng; khí gió sao mà chúng nhanh dài thế cơ chứ!. Tôi thương bé Hoa lắm, bị mọc bao nhiêu mụn. Cứ nặn cái ngòi này ra, chấm thuốc Xanh mê ty len xanh lè hôm trước hôm sau dịu đi thì cái khác lại ngoi lên. Bé bị hết cả người, nhưng nhiều nhất là ở đầu và ở mặt. Bé nằm ngửa đau nằm xấp đau tất, mà không khóc dữ dội nên mới càng thương. Tôi phải gượng nhẹ bế lót lên một đám vải màn mềm, rồi dỗ bú để bé đỡ khổ phần nào. Rồi thì hát ru đủ các bài để bé tạm quên đau. Có một lần khi bé đang ngủ tôi sờ lần và đếm từng cái mụn, thấy tất cả có tới trên 200 cái, tôi thề không dám nói điêu. Tôi cho cháu uống kháng sinh, uống sinh tố C, nhưng chả đỡ mấy, cho tới khi hết mùa nóng, qua thu mới đỡ dần. May mà chúng không làm sẹo gì cả. Cháu lại trắng trẻo hồng hào như xưa. Cháu lớn rất nhanh và cứng cáp, mới có hơn 10 tháng đã biết đi rồi, 11 tháng đi bằng dép trên sân lổn nhổn gạch vụn không bao giờ ngã.
Chiến tranh mỗi ngày thêm ác liệt. Mẹ con tôi ở chung phòng với mẹ con chị Thủy, một nhân viên hành chính. Chúng tôi tự đào hầm dưới giường ngủ của mình. Thi thoảng có tiếng máy bay địch, hoặc nghe đài báo là chúng tôi bế con xuống hầm. Nhưng cứ bế lên bế xuống mãi đâm quen và nhàm chán, lắm lúc mặc kệ chả xuống hầm nữa. Bỗng có một đêm, suốt từ tối, máy bay địch chà suốt, chúng tôi được lệnh bế con ra hầm chữ A ở sân trường. Tôi lục tục ôm con và cái chăn bông nhỏ, ra ngoài chui vào hầm cùng mọi người, ngồi tựa lưng một góc. Bỗng có tiếng kêu la ầm ĩ phía ngoài cổng trường. Thì ra ông hiệu trưởng vừa dắt xe đạp định về nhà thì có tiếng ì ầm máy bay, ông sợ quá ngã té xuống ruộng. Mọi người đổ xô ra thấy ông ngã xoài, chân xục trong đám bùn ướt. Thần hồn nát thần tính, ông tưởng bị thương chảy máu be bét nên kêu ầm lên, đến khi anh em ra bấm đèn pin vỡ lẽ là bùn ông mới hoàn hồn đi rửa chân tay về phòng ngồi, không thèm xuống hầm, không đi đâu nữa. Còn mọi người thì trở về hầm. Lúc này không có ông hiệu trưởng, anh Tân, một giáo viên mới kể chuyện vui cho nghe. Đấy là từ lúc chập tối, khi chưa xuống hầm, ông hiệu trưởng đã nói với anh: “Mọi việc của trường anh giao chú thay anh nhé!” rồi ông đi về như đã tả. He he, chúng tôi tán “Anh Tân sướng chưa? Mấy khi được Sếp giao trọng trách?”. Buồn cười quá đi mất, nhưng cười vui thế thôi, ai cũng thương ông hiệu trưởng. Ông già quá rồi, ngày trai trẻ kinh qua chiến tranh đủ kiểu bây giờ thôi “tha” cho ông, đừng cười cợt ông tội nghiệp.
Vui chuyện mãi sẽ hết chuyện, ngồi dưới hầm mệt mỏi chật chội mọi người rủ nhau ai về phòng nấy. Một lát sau, lại có tiếng máy bay, mẹ con chị Thủy nhảy ngay xuống hầm dưới gậm giường. Còn tôi và con gái cứ nằm trên giuờng. Chị Thủy dục tôi xuống hầm, tôi bảo tôi mệt quá, mà cháu vừa mới ngủ, bây giờ bế xuống nó thức dạy thật khổ. Vừa nói dứt lời, một tiếng nổ đinh tai nhức óc. Tôi có cảm giác bom thả thật không còn là đùa nữa, chớp sáng lòe bên phía tường giáp giường mẹ con tôi. Theo bản năng tự nhiên, tôi ôm choàng- lấy thân mình- đè sấp lên che cho con rồi hai mẹ con lăn một vòng chui xuống hầm dưới gầm giường. Toàn bộ các khung và dui mè mái lá của căn phòng đổ ập xuống. Thế rồi tôi ngồi ôm con đến sáng. Bé khóc một lát rồi ngủ bên tí mẹ, thỉnh thoảng khó chịu co chân đạp thanh thách vào tường hầm, chật chội quá mà. Chị Thủy thất thanh gọi tôi chạy ra ngoài không được ở trong phòng nữa, tôi nghe thấy nhưng mệt quá cứ mặc kệ. Sáng ra, mọi người nháo nhác tìm hỏi nhau. Đủ quân số hết chỉ thiếu hai mẹ con tôi. Chị Thủy hốt hoảng gọi mọi người đến chui xuống hầm tôi. Tôi cười khanh khách chêu òa mọi người. Tôi bảo tôi biết bom rồi, tôi mệt nên cứ ngồi bù lại lúc chủ quan không chịu xuống hầm, chứ mẹ con tôi nguyên vẹn, không thất thoát ti ti gì cả. Trở ra, thu dọn chiến trường, mới thấy kinh, cái cây trước phòng đã bị mảnh bom tiện ngang. Tường phòng tôi, đúng bức tường che hai mẹ con găm đầy các mảnh bom nhỏ. Thì ra bom thả ngay cạnh trường. Cơ quan đang nghe phản ánh tình hình chăc sẽ chuẩn bị cho các mẹ các con đi nơi khác thôi.
Quả nhiên có lệnh chuyển đi sơ tán về Hoài Đức. Lại lục tục chuẩn bị gói ghém hành trang. Cứ mỗi lần chuyển đi như thế này là một lần tôi tủi thân lắm, bởi cứ nhìn các anh chồng từ Hà Nội vào giúp vợ con chuyển đi, mà mình chỉ có một mình. Riêng chị Thủy, chồng ở Hà Nội, chưa kịp vào thế là chị khóc lu loa, bảo anh Hữu “anh ơi chở mẹ con tôi với” “Chở đi đâu chị, tôi đi Văn Điển đây.” “Cũng được, cho mẹ con tôi đi Văn Điển rồi tính tiếp” Thế là cả bọn chúng tôi cứ lăn ra cười. Vì cái anh chàng kia tính hay đùa cứ nói tưng tửng, chỉ chị Thủy là thật thà quá thôi. May quá, ngay sau đó chồng chị vào kịp thời. Còn tôi, cười cười thế thôi chứ luôn chân luôn tay, nấu cháo cho con ăn, rồi múc cháo cho cả bé con chị Thủy nữa, buộc chăn bông to tướng vào mấy cái thanh ngang sau poóc ba ga xe đạp, rồi túi này túi kia lỉnh kỉnh. Cái xe đap nam tiện là buộc ghế đèo con đằng trước thì mới đèo được chăn đằng sau. Và chúng tôi rời xa Hà Nội thêm ít nữa.
Chúng tôi sơ tán tạm nhà dân. Lần này không chỉ các mẹ có con sơ tán mà một số đơn vị công tác cũng sơ tán luôn. Thế là ba anh em trưởng phòng Quy, anh Hữu và tôi lại cùng ở một nhà. Nhưng bây giờ anh Hữu đã có vợ, còn anh Quy vẫn một mình. Anh Quy không thường xuyên ở hẳn, phải chạy đi chạy lại Hà Nội nhiều. Chúng tôi ở những phòng khác nhau của nhà chủ, nhưng hay nấu cơm ăn chung. Có một lần, anh Quy đi đâu vắng, chỉ tôi và vợ chồng anh Hữu ăn cơm với nhau. Bữa ấy, trông chị vợ mệt mỏi buồn buồn, chị ăn rất ít. Anh Hữu hỏi vợ “Sao không ăn nữa à? Không ăn thì tớ “cà lảm” (làm cả)!” Tôi vừa buồn cười vừa thấy tưng tức “Anh Hữu hay thật đấy. Chắc chị mệt thì anh phải dỗ chị ăn thêm chứ sao hồn nhiên thế?” Anh ấy cười hì hì thản nhiên ăn uống ngon lành. Ui chao vẫn cái vô tư tưng tửng ấy, cái khôi hài đặc biệt ấy, nhưng hình như hôm nay không phải chỉ là vậy. Anh ấy đang cần ăn, không kiềm chế được.Tự nhiên tôi thấy buồn, chẳng cười nữa. (gớm, thì ra tôi lại phức tạp quá rồi).
Với con gái, hàng ngày tôi nấu cháo cho bé ăn rất đơn giản. Tối đun một siêu nước, vo ít gạo nếp gạo tẻ bỏ trong cái phích Rạng đông, đổ nước sôi vào đầy phích. Thế là sáng mai ngủ dạy có phích cháo sánh đặc sệt ngon lành. Rồi đem cháo trộn với ít ruốc làm sẵn mang cho con ăn. Có ít dầu hỏa dự trữ để thắp sáng ban đêm và phòng khi cần đun nấu gì đó cho con. Còn nấu cơm cho người lớn thì đun nhờ rơm rạ của gia đình.
Vì ở xa Hà Nội, nên mỗi khi phải về, tôi không dám chở con đi nữa. Có một lần, tôi đánh liều gửi con cho anh Quy trong khi bé đang ngủ trưa, vì vợ chồng anh Hữu đi đâu vắng. Đạp xe về chợ Trời, tôi tranh thủ mua thức ăn theo tem phiếu, rồi mua gạo mua mì. Đang thời chiến nên không phải xếp hàng. Đường phố vắng vẻ không một bóng người, các gia đình phần đông đi sơ tán cả. Tôi sang nhà bố tôi, viết một mảnh giấy hỏi thăm và kể vắn tắt tình hình hai mẹ con tôi sơ tán ở đâu, rồi nhét qua khe cửa.
Trở về nhà mình, mới mở cửa vào thì đã báo động. Lại phải chui xuống hầm, ở ngay gầm giường. Chán quá, kiểu này phải tranh thủ, rán tí mỡ, kho tí đậu trong lúc chờ đợi. Thế là với bếp dầu để ở ngay miệng hầm, tôi vừa xử lí thịt đậu vừa tránh máy bay. Bỗng dưng, một cảm giác thật là buồn ập đến. Không biết giờ này, MQ đang ở đâu, con gái đã ngủ dậy chắc sẽ khóc tìm mẹ. Nếu rủi tôi trúng bom đạn ngay tại nơi này thì sao nhỉ, ai biết đâu mà tìm đến cái làng bé nhỏ kia, ở nơi đấy anh trưởng phòng Quy chưa vợ đang trông hộ con tôi, một đứa trẻ hết khóc lại nhìn ngơ ngác lạ lẫm. Mới hôm nào trước khi chuyển về tập thể, tôi xuống hầm và bế cả con, còn MQ thì luộc bánh trôi. Tôi vừa bế con vừa nặn rồi với lên đưa MQ luộc. Tôi bảo anh xem được thì vớt ra nhé. Anh bảo “thế nào là được hả em?” tôi đùa “ba chìm bảy nổi mà, anh cứ đếm hễ có bảy viên bánh nổi tương ứng ba viên bánh chìm thì là được!” hai đứa cùng phá lên cười. MQ mải luộc bánh nên mặc kệ lệnh báo động không xuống hầm trú ẩn. Me tôi gan, chả xuống, cứ loanh quanh dọn dẹp trong nhà. Vậy mà, bây giờ, giờ này, tất cả đều ở xa hết rồi. Chỉ còn lai mình tôi chạy xuống chạy lên nấu cho xong tí đồ ăn này, và đợi lệnh “máy bay địch đã đi xa” để đạp xe về với con. Chả phải đợi quá lâu, có thông báo rồi, tôi dọn dẹp vội các thứ, lấy thêm vài đồ dùng nho nhỏ và áo quần cần thiết rồi lên đường, bùi ngùi nhìn lại một lần con phố thân quen vắng lặng đến rợn người, với những cánh cửa đóng chặt, những dòng chữ phấn trắng hoặc mảnh giấy kẹp dán cửa nhắn tin cho nhau trong thời buổi loạn lạc.
Về đến nhà dân nơi sơ tán, dắt xe vào sân, tôi đã thấy trưởng phòng bế con mình ra. Con bé trông thấy mẹ ôm chầm và khóc òa tức tưởi. Thương con quá đi mất. Anh kể: “Đã mấy lần, nghe tiếng lạch xạch xe đạp về là cháu nhìn ra ngó nghiêng tưởng mẹ chực khóc, nhưng rồi không phải vì đấy là vợ chồng bác Hữu. Mình đành nựng lát nữa mẹ cháu mới về cơ, mà trời thì ngày càng tối dần, lo lắm, không hiểu Thư có chuyện gì không”. Tôi thấy cay cay mắt: “Cảm ơn anh lắm, em về được rồi, mà chắc chỉ lần này, lần sau em không dám bỏ con mà đi một mình vậy đâu anh, cứ mang con đi rồi sống chết cùng nhau thôi”. Anh ấy nhìn tôi ái ngại.
Đêm 26 rạng ngày 27 tháng 12 năm 1972, khu phố Khâm Thiên đã bị những trận bom B52 rải thảm ác liệt nhất. Theo thống kê đưa lên báo chí, máy bay B52 rải hàng trăm quả bom các cỡ, hủy diệt 6 khối dân cư , giết hại 287 người, làm bị thương 290 người trong đó có nhiều người già và trẻ em, phá huỷ làm sập gần 200 ngôi nhà, đền chùa, trạm y tế, rạp hát làm cho 2.469 gia đình không có chỗ ở, nhiều cơ sở phục vụ công cộng hư hỏng nặng nề.
Ngày 27 tháng 12 là kỉ niệm ngày cưới của vợ chồng tôi. Tôi ghi tiếp đây những gì liên quan đến cái ngày 26 và 27 tháng 12 năm 1972 ác liệt đã lui xa vào quá khứ ấy, cũng để nhớ ngày chiến tranh mẹ con tôi sống xa MQ, nhớ MQ và chia xẻ với bạn đọc.
Chúng tôi sơ tán ở Hoài Đức được ít ngày thì xảy ra những vụ ném bom kinh hoàng tại Hà Nội. Lúc đầu chúng tôi nghe tin Hà Nội bị oanh tạc từ 18/12/1972, rồi đến bệnh viện Bạch Mai bị thả bom 22/12/1972. Một đêm, mẹ con tôi ngồi cùng hầm trú ẩn với một chị bạn ở Vụ nghiệp vụ. Thoạt đầu, chúng tôi nói chuyện với nhau, tôi chêu bạn có chồng là họa sĩ tài ba nhưng lập dị, sống khác biệt mọi người và bạn thì kể cho tôi nghe anh ấy còn làm thơ hay nữa, không chỉ vẽ giỏi đâu, sau rồi chỉ im lặng không nói lời nào khi bên tai nghe thật rõ tiếng bom rền từ xa. Có phải nơi đó là Hà Nội thân yêu không, tôi thầm tự hỏi. Giờ này, hình như cả gia đình tôi, những người thân của tôi đều đã đi sơ tán khỏi Hà Nội. Lạy trời! đừng có ai bỗng dưng trở về Hà Nội. Nhưng còn có một người, đó là cậu chồng của tôi. Cậu đang ở đâu cậu ơi! tôi nóng lòng tay ôm con ru ngủ mà không nựng bé được câu nào. Bé Hoa vẫn vô tư đi vào giấc mơ thần tiên trên lòng mẹ. Còn tôi, tôi chỉ mong trời mau sáng để hỏi tin tức. Tôi không còn giờ nghĩ đến MQ, không tính gì cả, chỉ có một ý nghĩ chợt lóe lên.
Sáng ra, tin gì đến sẽ đến. Khủng khiếp làm sao… phố Khâm Thiên bị bom trải thảm rồi!. Tôi cuồng lên, cậu chồng tôi làm việc tại Tổng công ty xăng dầu số 1 Khâm Thiên, tôi biết tìm cậu ở đâu bây giờ? Chỉ còn một cách thôi, ý nghĩ chợt lóe lên là thế, mẹ con tôi phải liều mạng về ngay Hà Nội, bom mới thả xong, hôm nay chúng không thể thả thêm được, mà có thả nữa tôi cũng không sợ. Tôi chẳng có bụng dạ và can đảm nào để gửi ai trông hộ con mà về một mình cho được. Thế là tôi vội vã cho con ăn và mang theo một ít dự phòng, rồi dúi vào túi vài cái quần cái tã, mặc quần áo ấm cho bé, đem sẵn áo mưa, trùm chăn buông màn rủ xung quanh ghế đèo rồi lên đường, và đi như đi trốn, không báo cáo ai, không tâm sự kể lể gì với ai. Con gái ơi, con chịu khó đi cùng mẹ, mẹ con mình có nhau con nhé; chúng ta phải đi tìm ông cậu con có hiểu không?Tôi đạp xe không biết mệt là gì, ngược gió xuôi gió cứ đạp vù vù, sức mạnh ở đâu tăng lên gấp bội. Một lát sau trời mưa phùn, vẫn cái rét mùa đông, mẹ con tôi đâu có sợ gì, đã quá quen rồi. Con gái có buồn ngủ, con cứ chịu khó gật gù thôi, mẹ buộc chắc lắm rồi, không có gì phải dừng lại cả.
Sắp đến Hà Nội, cái vắng lặng hôm nay giống hệt cái vắng lặng của mấy lần trước nhưng sao thấy căng thẳng quá thế. Đúng như tôi dự đoán, hôm nay không thể có bom có đạn gì được. Hà Nội nói chung và Khâm Thiên nói riêng người dân lành đang ngã xuống dưới làn bom hủy diệt man rợ của kẻ thù. Đây rồi, hai dãy phố bên ngoài đường Khâm Thiên hiện ra, hầu như còn nguyên vẹn, nhưng ngay phía đằng sau là đổ nát tan hoang. Vẫn còn đây những cánh cửa ghi chằng chịt lời nhắn nhủ giống như con phố nhà tôi hôm nào, nhưng không phải chỉ có thế, thi thoảng có áo quan màu đỏ nằm dài bên vệ đường, hoặc thò ra đầu áo quan từ một ngách ngõ. Những đám người khóc than vật vã. Những đôi mắt ngầu đỏ. Và đằng phía sau mặt phố kia, có phải là những tấm lưng cúi lom khom, những đôi tay yếu ớt đang ra sức đào bới kiếm tìm không? Tôi cảm thấy như mình nghẹt thở. Tôi không còn tâm trí nào hỏi xem con ngủ hay thức, không cần biết gì hết, không dám nhìn nghiêng sang hai bên dãy phố nữa, đạp thẳng đến cái đích của tôi là số 1 Khâm Thiên kia. Tôi xuống xe, người run lên. Tôi tìm đến một chú bảo vệ đứng gần đó, nét mặt chú rất buồn. Tôi lắp bắp nói không ra hơi:
-...Chú ơi! chú chú … cho cháu hỏi thăm với…
- Sao nào chị có việc gì cần hỏi cứ hỏi đi-chú nhìn tôi vẻ quan tâm.
- Cháu có cậu tên là Lê Hân, làm ở Tổng công ty đây, cậu cháu đêm qua có việc gì không chú?
- Ông Lê Hân là người nhà của chị hả? May cho ông ấy, ông đã sơ tán rời khỏi cơ quan từ chiều tối hôm qua rồi, trước khi giặc ném bom, chỉ còn một số cán bộ khác ở lại thì bị thôi chị ạ.
- Dạ cháu cảm ơn chú ạ. Cháu chào chú.
Tôi thấy như lồng ngực muốn vỡ tung, chẳng dám hỏi thăm về những đau thương mất mát của cơ quan cậu, chẳng dám hỏi kĩ xem cậu đang ở đâu. Tôi dắt xe trở ra, và chợt nhớ phải về tiếp chợ Trời để chứng kiến tận mắt, người thân của mình không ở lại Hà Nội, hoặc bỗng dưng có ai về thì không bị làm sao cả.
Đúng như dự đoán, phố xá nhà tôi yên ắng đến rợn người, nhưng ở đây không có tang tóc, không có bom đạn. Cửa nhà tôi và nhà bố tôi đều khóa trái. Tôi thở phào nhẹ nhõm, lục tục mở khóa vào nhà, lấy đồ ăn cho con, còn mình thì chả có gì ăn, nhưng không đói. Xong đâu đấy, hai mẹ con hì hục đạp xe trở về nơi sơ tán, sau một chuyến đi căng thẳng là chính chứ không hề cảm thấy gian khổ mệt mỏi nhọc nhằn.
Trước tình hình đó, cơ quan tiếp tục sơ tán xa hơn. Thế là chúng tôi lại khăn gói ra đi. Lần này có xe chở đồ đạc, và có thể chở cả người nữa nhưng tôi chỉ gửi chăn và đồ đạc lỉnh kỉnh, còn tự mình đèo con gái với chiếc xe đạp của bố MQ, tại vì tôi say xe lắm và người rất yếu. Hôm ấy trời thật lạnh, đi giữa đường thì mưa phùn. May có bốn cái cọc cậu làm nên tôi có thể quấn khăn bông cho bé và trùm áo mưa ra hẳn ngoài cái ghế đèo, nên con không ướt, nhưng vì lạnh quá nên môi bé tím ngắt. Dọc đường, tôi dạy con tập nói, bập bẹ hai tiếng một: “mẹ ơi, bố ơi, bà ơi, ông ơi, gà ơi, bò ơi, dép ơi, bát ơi” nghĩa là bất cứ cái gì có thể “ơi” được. Một lúc sau thấy im im, tôi phải dừng xe để kiểm tra. Thì ra bé mệt quá đang ngủ gật. Tôi nghỉ một lúc chẳng đi nữa, phần vì ngại bé lắc lư ngoẹo đầu ngoẹo cổ, phần vì ngẩn ngơ nhìn theo mấy chiếc xe, lại mấy chiếc xe bộ đội vụt qua. Các anh trên xe vẫy rối rít: “hai mẹ con lên đây em ơi!”. Ôi giá như là MQ gọi nhỉ, thì có say xe đến thế nào hai mẹ con cũng phải ào lên, đằng này…Tôi đành giơ tay vẫy vẫy chào tạm biệt, chả nói được lời nào.
Lên đến nơi, chúng tôi ở nhờ nhà dân. Hai mẹ con tôi được phân vào một gia đình có ba mẹ con. Chị chủ nhà hơn tôi chừng dăm tuổi, hai bé con một cháu trai 5 tuổi, một cháu gái 3 tuổi. Chồng chị đi bộ đội không có nhà. Hai đứa trẻ lớn rồi trời lạnh thế mà vẫn cởi chuồng, chạy lêu têu trên đường làng suốt ngày. Chúng có đôi mắt to tròn rất đẹp, lông mi cong vút. Nhà nghèo lắm, tuyềnh toàng. Buổi tối ăn cơm thì chị quẳng cái mẹt ra giữa sân, bỏ vào ba cái bát một đôi đũa hai cái thìa, đặt nồi cơm độn sắn khô, và một cái đĩa đựng ít hạt muối trắng.Chỉ vậy thôi, tịnh không có chút rau nào nói gì thức ăn khác. Không phải thắp đèn, vì hôm đó trời sáng trăng. Mà có tối trăng thì cũng chả cần gì đèn, có gì đâu mà gắp? Tôi nhìn ba mẹ con ăn cơm mà lặng người. Thì ra mẹ con chị (và dân ở đây nói chung chăng?) còn khổ hơn mình nhiều nữa!
Chúng tôi luân phiên làm cấp dưỡng, nấu cơm tập thể rồi chia xuất mang về nhà ăn, với món ăn chiến lược là cá mắm. Cá mặn lắm, nhưng trời lạnh mùa đông nên ăn thấy được cơm! Chúng tôi chặt bỏ đầu, ném vào nước gạo cho nhà chủ nuôi lợn. Lúc ăn cơm, tôi để phần hai bé nhà chủ một ít cá mắm, vì thấy chúng có vẻ thích. Một hôm, chị chủ nhà hỏi tôi chuyện nấu cơm nhà bếp, chị ngỏ ý hôm nào đến lượt làm cấp dưỡng, nhờ tôi xin về cho chị ít đầu cá. Tôi nhận lời ngay và còn sốt sắng “chưa đến lượt em, em nhờ bạn em được mà chị”, rồi chiều hôm ấy tôi mang về cho chị một đám đầu cá mắm. Chị cất đi cẩn thận, rồi mang một ít ra nấu canh với nửa quả bầu. Chị cứ để nguyên mấy đầu cá bẩn, mang cá đầy đất sạn chỉ rửa qua bên ngoài rồi cứ thế đun với nước lã, băm bầu nhỏ bỏ vào. Xong, chị dọn mâm bát cho ba mẹ con như mọi khi, hôm nay có thêm bát canh nghi ngút khói. Chị múc đưa tôi một bát và bảo hai mẹ con tôi ăn thử đi ngon lắm. Trời ơi thú thật từ lúc chị mới múc canh lên, tôi đã muốn nôn vì cái mùi tanh tanh của nó. Nay chị cho bát canh, tôi nể chị quá nên múc ra hai thìa bỏ vào bát con, nói:“em cảm ơn chị. em nếm thôi, còn thì chị và các cháu ăn đi”, và tôi đưa lên miệng nếm thật, lúc này thì mùi vị thật sự của nó còn kinh khủng hơn nhiều, tôi thấy đăng đắng nơi cổ họng, không hiểu đó là canh mặn đắng hay cái đắng nghẹn ngào mà tôi đã phải dấu đi những dòng nước mắt nhỏ xuống? biết đâu chả vì thế mà canh loãng ra đỡ mặn hơn?
Chúng tôi sơ tán tại nơi này tạm ổn. Con gái tôi đã biết đi, cứ lang thang vào các ngõ mà chẳng sợ gì, tôi phải theo trốn nấp xem con đi đâu. Vào chơi nhà dân, ai cho sắn khoai gì ăn tất một cách ngon lành, rất dễ chịu, không bao giờ quấy khóc. Mỗi ngày bé ị một lần thành lệ, chỉ việc xi ngay xuống đám đất quanh khóm tre làng hoặc cây cối gì đấy là chó đi theo sơi hết luôn gọn ghẽ, mẹ bé đỡ phải dọn chỉ việc lau rửa cho bé thôi.
Thế rồi ngày 13/1/1973, nghe tin hiệp định Paris được ký tắt, không khí như trùng hẳn lại. Chúng tôi vui mừng và thở phào nhẹ nhõm. Tới ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định được ký chính thức giữa các bộ trưởng ngoại giao hai bên tham dự Hội nghị Paris, thì chúng tôi biết chắc rằng mình không còn sơ tán ở nơi đây nữa. Cùng là chuẩn bị đi một quãng đường xa, nhưng tâm trạng khác hẳn lúc trước. Ngày trở về trường máy tính, tôi đã gửi con gái theo các bác đi xe cơ quan về, còn tôi vẫn đi xe đạp một mình.
Về đến nơi, tìm đón con xong là yên ổn. Các bác kể con gái tôi luôn nhớn nhác và khóc gọi mẹ, mặc dù cùng đi trong xe có bao nhiêu bạn nhỏ cùng trang lứa. Mới về tạm thời tôi báo cơm ăn tập thể như cũ, hồi ấy ăn cơm toàn độn với ngô xay vàng óng. Thế mà, lúc lấy cơm mang về, tôi nhai cho bé, bé ăn hết cả xuất cơm luôn. Động tác nhai cơm này là tôi học được của bà con nơi sơ tán. Nghĩ thấy hơi mất vệ sinh nhưng thật là tiện. Tôi không ngờ ranh con ăn khỏe thế. Nhưng chỉ có bữa ấy thôi, chứ thi thoảng mới dám cho ăn một ít, bởi cháu vẫn được mẹ cho ăn riêng thức ăn bồi dưỡng rồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét